Monday, July 13, 2009

Trung Úy Trưởng Toán STATA-111 Bùi Văn Thiện



Trung Tá Bùi Văn Thiện, Khóa 11 Trừ Bị Thủ Đức Nguyên Chỉ Huy Trưởng Đoàn Công Tác 71 Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cũng là người Trưởng Toán STRATA-111 đầu tiên của Đoàn Công Tác STRATA 11 gồm 13 Biệt Kích Việt Nam đã nhảy vào thám sát mục tiêu ngay giữa nơi dóng quân của một đại đơn vị Bắc Việt tại Đồng Hới vào năm 1967.

Sau nhiều lần chạm súng và bị địch bao vây. Trung Úy Trưởng Toán STATA-111 Bùi Văn Thiện đã bình tỉnh và gọi phi cơ Hoa Kỳ đến oanh tạc ngay trên đầu vị trí của toán, gây tữ thương cho 192 Bộ đội Bắc Việt thuôc Sư đoàn 325-BV. Tổng Thống Hoa Kỳ và Chỉ Huy Trưởng cơ quan MACV-SOG đã gữi lời chúc mừng và nhiệt liệt khen ngợi.

Trung Úy Bùi Văn Thiện đã được Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH trao tặng BIỆT CÔNG BỘI TINH và đặc cách thăng cấp Đại Úy tại mặt trận.

Thursday, July 9, 2009

Đoàn Khánh Hòa 13 / Thiếu Tá Lê Minh Đoàn 2 Sở Liên Lạc




Toán OHIO FOB2 KONTUM 1966-1967
Hàng đứng (từ trái sang phài)
Văn Minh Huy, Wong A Cầu, MSG Richard J. "Dick" Meadows, 1st Lt. Lê Minh, SFC James A Simpsons, SFC N. "Chuck" Kerns, Trần Can và Trương Dậu
Hàng quỳ (từ trái sang phài)
Liêu A Sáng, Nguyễn Kim Trạch, Trương A Nhục và Lý A Dưỡng



Để tưởng nhớ đến:
• Trung Úy Phan Nhựt Văn (Sở Liên Lạc)
• Đại Úy Dick Meadows (MACVSOG)
• Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa (Phi Đoàn 219 KingBee)
• cùng các Chiến Hữu Nha Kỹ Thuật đã phục vụ và hy sinh trong cuộc chiến tại Việt Nam.

Lê Minh


Đối với người Âu Châu, con số 13 là số xui xẻo, con số tối kỵ. Nếu con số này lại rơi vào ngày thứ Sáu thì càng tối kỵ hơn nữa. Riêng về phần tôi, dạo còn đi học hay thời gian trong quân ngũ, tôi cũng chẳng kiêng cữ gì với số 13 này cả… Thứ Sáu ngày 13 nếu là ngày không tốt, nếu là ngày xui thì chỉ dành riêng cho người Âu Châu mà thôi… Nhưng đối với Đoàn Khánh Hòa 13 này, con số 13 là con số mạt rệp, con số xui xẻo tận mạng, con số đau thương tang tóc.
Tháng 6 năm 1966, buổi sáng thời tiết ở Kontum thật là mát mẻ. Bầu trời trong xanh và cao thăm thẳm. Tôi có thói quen ngày nào cũng phải nhìn trời để rồi liên tưởng đến thời tiết mỗi ngày. Buổi sáng trời trong xanh, trần mây cao như thế này thật là lý tưởng cho những chuyến hành quân xâm nhập hay triệt xuất. Thật ra các chuyến công tác xâm nhập thường vào buổi chiều, mà buổi chiều ở vùng Tam Biên thay đổi thất thường. Trời đang cao thăm thẳm không một tàn mây, rồi mây đen ở đâu bỗng ùn ùn kéo tới thật thấp, tưởng chừng như là đà ngọn cây. Tầm nhìn cao và xa không qúa 100 thước, do đó thường gây trở ngại cho các chuyến hành quân nhưng lại là yếu tố thuận lợi cho các đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt trên hành lang Trường Sơn vùng 3 biên giới.
Tôi vừa nhận được lệnh hành quân chiều hôm qua. Sáng nay khoảng 10 giờ thì bay không thám. Bây giờ mới 7 giờ rưỡi sáng, còn sớm qúa! Tôi muốn trở vào giường nằm nán thêm ít phút để suy nghĩ về những ngày phép sắp tới, khi chuyến hành quân này chấm dứt. Niềm vui của những ngày về phép Sàigòn, những ngày được sống cạnh Liên khiến tôi bỏ ý nghĩ vào giường nằm lại. Tôi quay về phòng lấy gói thuốc lá và bước qua Câu Lạc Bộ uống cà phê. Đang ngắm những giọt cà phê từ từ rơi xuống đáy cốc và nghĩ đến bức thư của Liên vừa nhận được hôm qua, cho biết là đã mang thai được 2 tháng và hỏi tôi muốn đặt tên con là gì? Tôi thì thích con trai, Liên thì muốn con đầu lòng là con gái… Đang mải suy tư bỗng giật mình vì tiếng của Trung Sĩ Phát HSQ Ban 3:

-o- Trung Úy, 10 giờ sáng nay Trung Úy bay không thám. Xe Jeep Ban 3 đã chuẩn bị sẵn sàng chở Trung Úy ra phi trường đang đậu ở TOC. Trung Tá nhắc Trung Úy ra phi trường đúng giờ, đừng để tụi Mỹ nó chờ!
-o- ”Con c…” – Tôi muốn chửi thề tiếp theo nhưng vội tốp lại. Tại sao ông xếp nào cũng có tính lo xa? Các ông ấy đâu có biết những điều thiếu tế nhị đó thường làm bọn Sĩ Quan trẻ chúng tôi tổn thương tự ái. Rồi tôi tự nhủ ”Quân Đội là vậy đó. Buổi sáng trời đẹp như thế này xì nẹt làm gì?”. Nghĩ thế tôi bèn cười và nói với Trung Sĩ Phát:

-o- Ngồi xuống đây, còn sớm mà… Cà phê sữa nhé?

Qua phút ngượng vì tôi xì nẹt bất tử, Trung Sĩ Phát ngồi xuống nói:

-o- Bản đồ đã làm xong. Em đã khoanh tọa độ các bãi đáp theo như không ảnh dự trù. Có điều các bãi đáp đều qúa xa mục tiêu!

-o- Tao biết… Ban 2 và Ban 3 đã thuyết trình hôm qua rồi. Mày sợ ở vùng mục tiêu không có bãi đáp triệt xuất phải không?

Vì bảo mật, các mục tiêu hành quân chỉ giới hạn cho một số người biết. Hạ Sĩ Quan Ban 3 như Trung Sĩ Phát thì chỉ biết làm bản đồ hành quân, còn nhiệm vụ hành quân và tin tức tình báo thì biết một cách hạn chế. Nhưng vì phục vụ ở Ban 3 Chiến Đoàn từ lâu, phụ trách đánh máy giải trình các cuộc hành quân, do đó Phát cũng đoán được tính chất của mục tiêu và nhiệm vụ cuộc hành quân này. Thật ra nhiệm vụ chính của cuộc hành quân này vẫn là thám sát, báo cáo và hướng dẫn phi cơ oanh kích. Nhiệm vụ phụ là ”bắt tù binh”. Có điều tôi thấy hơi khác lạ là trước nay thường có lệnh chuẩn bị hành quân từ trước. Sau đó, toán được đưa vào Khu Cấm, nội bất xuất – ngoại bất nhập. Xong đâu đó, Toán Trưởng mới nhận được lệnh hành quân; tham dự thuyết trình với các Sĩ Quan Ban 2 và Ban 3 với các không ảnh mới nhất; sau đó đi bay không thám để chọn bãi đáp. Ở nhà Toán Phó tùy theo tính chất mục tiêu và nhiệm vụ hành quân, liên lạc với Ban 4 để trang bị đầy đủ theo nhu cầu.



Toán ở trong Khu Cấm thường thì 2 hay 3 ngày. Trong thời gian này, chỉ có Toán Phó và Toán Trưởng bận rộn thôi. Toán viên chỉ lo lau chùi vũ khí, chuẩn bị các quân dụng cần thiết mang theo cho phù hợp với nhiệm vụ chuyến công tác. Trước khi đi hành quân, cả toán được xe chở ra sân bắn để thử súng. Ngoài ra, cả ngày toán chỉ ở trong Khu Cấm, nằm nghe nhạc, thục bi-da và xem báo PlayBoy. Báo PlayBoy thì các HSQ cố vấn toán cung cấp không thiếu.
Lần hành quân này, nếu hôm nay tôi bay không thám, chọn được bãi đáp rồi thì chiều nay là ”go” ngay. Mấy thằng em tôi trưa nay mới phải vào Khu Cấm, trang bị và thử súng cũng nội trong buổi chiều. Gấp qúa nhưng tụi nhỏ nó khoái. Làm sớm nghỉ sớm! Tôi lại nghĩ đến buổi thuyết trình chiều qua. Nhìn vẻ mặt thật quan trọng của Trung Tá Cold Cố Vấn Trưởng và Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng sau khi được SQ Ban 2 và Ban 3 cho biết là mức độ xâm nhập của địch vào vùng Benhet rất cao. Hình ảnh do vệ tinh chụp được cho thấyxe vận tải và bộ binh của địch di chuyển rất rõ. Tin tức tình báo như thế này thì xếp vào loại A rồi! Nhiệm vụ chuyến hành quân này là: quan sát, chỉ điểm cho khu trục oanh kích các đoàn quân xa và các đơn vị địch. Ngoài ra còn tìm các kho tiếp liệu quanh vùng này.
Tin tình báo cho biết địch sẽ chuẩn bị tấn công vào quận Tân Cảnh hoặc thị trấn Dakto. Tôi cũng khoái nhiệm vụ của cuộc hành quân này, vì không phải trang bị nặng cho các mục tiêu cần chất nổ hay mìn đặt trên đường. Có điều làm gấp như thế này sợ mấy thằng em của tôi thiếu chuẩn bị. Tôi quay qua Tr/Sĩ Phát:

-o- Anh chạy xuống toán gọi Thương Sĩ Sơn giùm tôi. Tôi chờ anh về uống cà phê và ăn sáng luôn. Phải dặn Th/Sĩ Sơn vài điều mới được…

Tôi đi bay sớm nhất cũng 1-2 giờ trưa mới về. Buổi chiều còn biết bao nhiêu việc phải làm và tôi lại nghĩ đến Thượng Sĩ Cố Vấn toán mới vừa đổi về hơn 3 tuần. Chúng tôi đã đi hành quân 5 ngày thực tập tuần trước. Tên này rất có kinh nghiệm trong ngành Lực Lượng Đặc Biệt. Nghe nói hắn là HSQ xuất sắc nhất của Liên Đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ. Toán tôi có 3 tên Mỹ, tên nào cũng có từ 10 đến 15 năm kinh nghiệm trong LLĐB. Cố Vấn Trưởng Thượng Sĩ Richard J. Dick Meadows. Hai Trung Sĩ kia là James A. Simpson và Trung Sĩ Charles N. Chuck Kerns. Hai Trung Sĩ này, một người là chuyên viên mìn bẫy và phá hoại, còn người kia là chuyên viên truyền tin kiêm cứu thương. Các Cố Vấn đối với toán rất thân mật, vui vẻ và cởi mở. Không biết đây là tiêu lệnh trên chỉ thị, hay là vì vào sanh ra tử chung với chúng tôi nên họ sống rất hòa mình với anh em toán.
Thượng Sĩ Sơn bước vào Câu Lạc Bộ cùng lúc với mấy Sĩ Quan trực thăng H-34. Tôi đẩy ghế và vẫy tay gọi họ lại ngồi chung, cùng lúc Trung Úy Huệ hỏi:

-o- Ê Minh Đen, cà phê sớm qúa vậy? Mày chuẩn bị hành quân phải không?

Tôi không trả lời vội, gọi mấy cô Câu Lạc Bộ xếp thêm ghế cho họ ngồi vây chung quanh bàn tròn rồi trả lời:

-o- Ừ có lẽ chiều nay, nếu thời tiết tốt.

Tôi quay qua Trung Úy Nghĩa, Trưởng Biệt Đội:

-o- Tụi mày xắp đổi Crew chưa? Sau lần hành quân này tao đi phép về Sàigòn, tụi mình rủ thằng Tuấn-con đi chơi.

Các Sĩ Quan trực thăng trong Phi Đoàn Long Mã 219 này nhìn vào chẳng giống các Sĩ Quan Không Quân khác một chút nào cả. Mặc đồ Biệt Kích, đồ Beo! Súng Colt 9 ly đeo xệ xệ, chẳng có lon lá gì cả. Nếu trong tay không cầm nón bay thì chẳng ai biết đây là những Sĩ Quan Không Quân hào hoa phong nhã. Nếu các binh chủng có sự đoàn kết sống chết với nhau thì phải kể đến các Phi Hành Đoàn này với các đơn vị hành quân của chúng tôi, như câu châm ngôn truyền tụng: ”Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”. Trong các chuyến hành quân ”Ra Đi Không Hẹn Ngày Về” của các toán Lôi Hổ, qua chiến công của các toán Biệt Kích mang về, một phần lớn cũng nhờ vào những phi vụ cảm tử của các phi công trẻ này. Với những nick-name mà các toán thường nhắc nhở như: Hùng Râu Kẽm, Nghĩa Lùn, Hiếu Chết, An Cào-Cào, v.v… Bất chấp hỏa lực phòng không của địch, bất chấp các toán Biệt Kích đang bị địch truy kích và sắp sửa bị tiêu diệt, những chàng trai này vẫn liều mạng đáp xuống.


Không những các toán Lôi Hổ coi các phi hành đoàn này như anh em, mà các phi công Hoa Kỳ yểm trợ hành quân chung cũng phải giở nón cúi đầu trước các phi vụ ”uống thuốc liều” của các chàng trai trẻ này. Chúng tôi thường nói đùa: Họ là những chàng trai hành quân mang dép… Lạnh cẳng, cần mang giầy, mang vớ thì đi chỗ khác chơi! Do đó, tuổi thọ của những chàng trai này thường ”gẫy cánh” ở luới tuổi dưới 30! Hôm nay, không có toán nào trong vùng hành quân nên bọn họ còn nhởn nhơ ở đây. Mỗi ngày, nếu có toán hành quân trong vùng thì 6 giờ sáng phải bay lên căn cứ yểm trợ Dakto ứng chiến rồi.
Tôi dặn Thượng Sĩ Sơn vài điều cần thiết rồi quay sang hỏi tiếp Nghĩa:

-o- Hôm nay mày được bao nhiêu ”chỉ” rồi? Tao nghĩ vài bữa nữa tụi mày đếm chỉ lia lịa đó.

Nếu người ngoài nghe câu này chắc chẳng hiểu gì cả. Không biết danh từ này do ai đặt ra, đến nỗi các bà lái phi công ở nhà cũng biết và xài danh từ này! Vì đảm trách các cuộc hành quân mà phi vụ nào cũng rất hiểm nghèo, do đó các Phi Đoàn H-34 và các Phi Đoàn O2 to BTL/KQ biệt phái sang, mỗi lần bay vượt biên giới đều được thưởng 3000 đồng. Số tiền này so với thời giá thì cũng khá lớn. Tuy nhiên, rất xứng đáng với nhiệm vụ nguy hiểm mà họ phải đảm trách.

-o- Nghĩa cười: ”Nướng hết rồi”.

Tên này coi chậm chạp và ít nói như con gái, nhưng bay bổng, mạt chược và binh xập xám thì một cây! Tôi xem đồng hồ và đứng lên nói: ”Thôi, tao đi trước!”, rồi quay sang bà Chủ Câu Lạc Bộ hô: ”Ghi sổ hết cho tôi”.

Sau hơn 2 giờ bay không thám trở về, vừa xuống xe đã thấy Thượng Sĩ Sơn đứng chờ sẵn. Tôi đưa ngón cái lên, ngầm cho Sơn biết là việc lựa chọn bãi đáp đã OK. Cầm lon Coke lạnh Thượng Sĩ Sơn đưa tới, tôi vừa đi vừa uống rảo bước xuống TOC. Trung Tá Chiến Đoàn Trưởng, Trung Tá Cố Vấn Trưởng, các Sĩ Quan Ban 2, Ban 3, các phi công O2, trực thăng võ trang, các trưởng phi cơ Việt, Mỹ đã có mặt ở dưới này rồi. Teo nheo mắt và bắt tay Thượng Sĩ Meadows. Cả hai cùng nói: ”Good afternoon!”.
Buổi thuyết trình này chỉ chú trọng về phần yểm trợ của Không Quân. Ý niệm hành quân cũng như lộ trình di chuyển của toán do Toán Trưởng dự trù. Thường thì Sĩ Quan Không Trợ Mỹ cho biết các lực lượng Không Quân yểm trợ cuộc hành quân cũng như các quy định thường lệ. Sĩ Quan FAC thuyết trình, chỉ định điểm hẹn 1, cho biết tần số liên lạc với khu trục A1-E đang trong vùng ở địa điểm 2. Lần này, toán chúng tôi hành quân đủ cấp số 12 người. Do đó, xâm nhập phải cần tới 2 trực thăng.
Vào tới địa điểm 1 – Biệt Đội 6. Chiếc trực thăng H-34 chỉ có Lead 1 và 2 theo hướng dẫn của FAC vào mục tiêu. Số 4 chiếc còn lại chờ ở điểm hẹn 1. Trường hợp gặp hỏa lực phi cơ bị rớt thì thứ tự các Rescue 1 rồi 2 vào tiếp cứu. Sau đó, trực thăng võ trang sẽ bắn rocket chung quanh bãi để H-34 xuống tiếp cứu. Trong trường hợp tình hình qúa nặng thì FAC sẽ điều động phi cơ khu trục A1-E ở điểm hẹn 2 vào tiếp. Nếu toán xâm nhập an toàn thì biệt đội trực thăng H-34 bay về Dakto ứng chiến. Trực thăng võ trang sẽ ở lại điểm hẹn 1 thêm 45 phút nữa. Sau đó, nếu mọi việc an toàn thì cũng bay về Dakto ứng chiến. Cuối cùng, khu trục A1-E sẽ giải tỏa bom đạn ở target G.



FAC luôn luôn có mặt trên vùng khoảng 30 dậm cách mục tiêu. Ngoài trường hợp khẩn cấp, toán sẽ báo cáo với FAC vào mỗi đầu giờ. 4 giờ 30 chiều thì báo cáo công điện trong ngày và vị trí dự trù đóng quân đêm. Thường thì công tác tuần tự như thế. Nhưng vì buổi sáng nay khi bay không thám, nhìn thấy bên dưới đường mòn chi chít như màng nhện. Hình ảnh không thám chụp từ mấy ngày trước bây giờ thấy xuất hiện thêm rất nhiều con đường mới. Nơi có ghi những con suối, bọn Công Binh của địch đã đổ đá và kè cây liền nhau cho xe vượt qua, dấu vết rất mới mẻ. Viên phi công FAC, người đã bay rất quen thuộc với vùng này cũng xác nhận các đường mòn này chỉ mới xuất hiện nội trong 1-2 ngày nay thôi. Ngoài ra khi bay không thám, tôi thấy các ngọn núi cao trong vùng đều có đặt tổ báo động. Tôi nghe súng trường ba tiếng một vang từ chỏm núi này sang chỏm núi khác.
Để có yếu tố bất ngờ, tôi đề nghị: ”Từ điểm hẹn 1, FAC hướng dẫn 2 trực thăng chở toán xâm nhập bay thật thấp, vào tới mục tiêu thì đáp luôn.”. Thiếu Tá Hoa Kỳ bay FAC nhìn các Sĩ Quan H-34 như hỏi ý kiến rồi ông nói: ”Từ điểm hẹn 1 vào mục tiêu khá xa, tôi đề nghị khi đi được khoảng 2/3 đường thì trực thăng mới bắt đầu hạ thấp cao độ. Như vậy cũng đủ yếu tố bất ngờ rồi. Vì bãi đáp khá lớn nên khi tôi lắc cánh ra dấu hiệu Bingo-Bingo-Bingo thì trực thăng 1 đáp xuống; khi chiếc này bốc lên thì trực thăng 2 đáp xuống.”. Đề nghị này rất khó cho phi hành đoàn vì FAC bay thật cao, hướng dẫn cho trực thăng lúc này đang bay rất thấp nên có thể sẽ không thấy được bãi đáp. FAC hướng dẫn Lead 1: Hướng 12 giờ 1000 thước, 800 thước, 600 thước, 400, 200, 100… Sau đó, FAC từ trên cao chúi xuống lắc cánh và gọi ám hiệu của máy bay ”Bingo-Bingo-Bingo”. Khi FAC lấy cao độ bay lên cũng là lúc Lead 1 đáp xuống. Khi Lead 1 bốc lên thì Lead 2 cũng vừa bay tới và đáp xuống luôn.
Như đã nói ở trên, trường hợp này bãi đáp phải lớn. Nếu bãi đáp nhỏ thì Lead 2 phải bay vòng lại để đáp cho đúng chiều, và nếu như vậy thì sẽ không còn yếu tố bí mật nữa. Nếu trong vùng bãi đáp không có các tổ báo động của địch thì chúng tôi giữ yếu tố bí mật được khoảng 80-90% rồi.
Sau đó, tôi lên bục thuyết trình, cho biết ý định hành quân của tôi mà tôi đã có ý niệm từ lúc ngồi trên chiếc O2 trên đường bay không thám về. Tốc độ di chuyển mỗi ngày, dự trù các điểm đóng quân đêm từ ngày N đến ngày N+4 trên đoạn đường từ bãi đáp đến mục tiêu. Ngày N+5 sẽ thám sát các tọa độ tại mục tiêu mà không ảnh đã cung cấp. Dự trù sẽ triệt xuất ngày N+6. Bãi đáp triệt xuất được dự trù ở tọa độ 200(th) hướng Đông-Nam, điểm đóng quân ngày N+4. Trường hợp chạm địch hoặc phải triệt xuất khẩn cấp thì bãi đáp sẽ tùy theo địa thế. Dấu hiệu cho phi cơ nhận toán là pano mầu cam trên chỏm nón. Dấu hiệu an toàn là pano mầu đỏ hình chữ T, mũi quay về hướng Bắc. Khói vàng là bãi đáp an toàn. Tôi hỏi: ”Ai có ý kiến gì nữa không?”. Tất cả đều chúc toán ”good luck”.
Bốn chiếc trực thăng võ trang vừa bay vượt qua dẫy núi hướng Tây-Bắc Dakto. Trực thăng chở toán 6 chiếc cũng bay theo. Trước đó vài phút, 4 chiếc khu trục A1-E bay đảo một vòng quanh bãi đáp trực thăng như ngầm cho biết ”Chúng tôi đã sẵn sàng chờ các bạn”, xong cũng bay khuất vào những mỏm núi cao hướng Tây-Bắc. Thời tiết chiều nay thật lý tưởng. Mặt trời đã gần sụp xuống ở chân trời nhưng hướng Tây trời vẫn còn sáng. Dự trù trực thăng bay khoảng 40 đến 45 phút, như vậy chúng tôi sẽ đến bãi đáp khoảng gần 6 giờ chiều. Xâm nhập mục tiêu trong thời gian này, xuống đất chúng tôi chỉ cần di chuyển khỏi bãi đáp chừng 300 đến 400 thước là có thể đóng quân. Địch dù đoán được có Biệt Kích xâm nhập nhưng tối rồi cũng khó mà theo dấu của chúng tôi.
Ngồi bên cửa trực thăng bỏ chân ra ngoài, tôi ngắm nhìn những cánh rừng cây cao xanh ngút ngàn điểm đầy những hố đỏ thẫm, dấu vết của những trân mưa bom B-52. Phi cơ tôi chở 6 người, gồm 2 tiền sát viên, tôi, Thượng Sĩ Meadows, 1 toán viên y tá và Trung Sĩ Charles mang máy truyền tin. Trực thăng thứ hai chở Toán Phó, Trung Sĩ James, 2 nhân viên phá hoại và 2 hậu vệ. Trời mới đó mà xụp tối rất nhanh. Gió tạt vào người tôi mát lạnh đến tê da. Trực thăng đến điểm hẹn 1, đảo vòng lấy hướng về bãi đáp và bay với cao độ thấp dần rồi giữ cao độ là đà trên ngọn cây cho đến bãi đáp. Cả đám xuống bãi đáp an toàn. Trời cũng vừa tối hẳn. Sau khi làm thủ lệnh kiểm soát tất cả đã an toàn, tiền sát viên bắt đầu di chuyển theo hướng đã định.
Đêm đó, chúng tôi đóng quân an toàn cách bãi đáp khoảng 500 thước. Tất cả toán chúng tôi tìm một địa thế cao, có cây không qúa to rồi đứng thành vòng tròn, mỗi người cách nhau một cánh tay dang ngang, đầu quay vào trong, xong đâu đó quay 180 độ ngược ra ngoài. Chúng tôi đóng quân quay thành hình tròn. Mỗi khi có báo động, chúng tôi đã có đội hình phòng thủ 360 độ. Ba-lô kê đầu, lưng lót poncho, dây đạn chỉ cởi khoen nhưng không tháo khỏi lưng, nằm ngủ súng luôn để trên bụng. Những ngày hành quân chúng tôi đều ngủ như thế.
Thay phiên nhau mỗi người gác một giờ. Đôi khi cảnh giác, chúng tôi cũng chăng giây báo động; một loại giây rất nhỏ bằng bao thuốc lá, vận hành bằng pin. Ban đêm chăng giây này cách mặt đất khoảng 3-4 tấc. Giây đứt, micro sẽ kêu lên, to nhỏ tùy theo volume đã được điều chỉnh từ trước. Tối ngủ, một người chỉ cần móc cái khoen của hộp báo động vào quai vai áo. Hệ thống báo động này rất nhạy, tuy nhiên cũng gây phiền phức không ít khi thú rừng đi vướng, hoặc cây khô ban đêm rơi xuống làm đứt giây.
Tôi tuyệt đối không bao giờ cho căng võng hoặc che lều. Trời có mưa thì trùm poncho chịu trận suốt đêm! Che lều đêm sương xuống lều sẽ phản chiếu ánh sáng, ở xa trông rất rõ. Ngủ võng đêm lúc trở mình sẽ khua động cành cây. Tôi cảnh giác cao như thế nên sau 2 năm hành quân, toán tôi chỉ bị theo dõi mấy lần nhưng chưa lần nào bị địch tấn công lúc đóng quân đêm cả. Địch thường theo dõi lúc toán mới xuống bãi đáp hoặc trong khi di chuyển, chờ lúc toán đóng quân là tấn công ngay. Buổi tối, chúng tôi không được phi cơ yểm trợ nên địch sẽ được lợi thế hơn. Nhiều toán đã bị đi đứt trong khi đóng quân đêm vì đồ đạc cởi bỏ lung tung, gây ồn ào hoặc hút thuốc lá, hay dùng C4 nấu cà phê.
Chúng tôi thường có câu: ”Đường mòn là mồ chôn Biệt Kích”. Hành quân cứ theo đường mòn mà đi hoài thì trước sau gì cũng lảnh thẹo. Hành quân mà hút thuốc lá là vô tình để cho địch theo dõi. Hút thuốc trong rừng ban ngày thôi, khói thuốc cũng bay từ 15 – 20 thước. Thuốc lá thơm thì mùi sẽ còn dễ nhận ra hơn nữa. Cả toán anh nào cũng là dân ghiền thuốc nên tôi cũng du-di, nhưng mỗi lần hút chỉ được hút phân nửa điếu đã được cắt đôi. Trong khi hút thuốc phải che điếu thuốc bằng nón vải. Nhả khói ra là lấy nón quạt khói tan ngay. Chỉ được hút 3 lần trong một ngày, mỗi lần hít vài hơi cho đỡ ghiền. Hút xong xé tan phần còn lại, bốc một nắm đất trộn đều xơ thuốc lại rồi rải xuống đất.
Không được hút thuốc có đầu lọc vì đầu lọc khó xé nhỏ, dễ để lại dấu vết. Tôi ở nhà hút mỗi ngày cũng gần một gói nhưng đi hành quân thì tôi nhịn. Chỉ tội nghiệp Trung Sĩ Charles, suốt cuộc hành quân miệng không ngớt nhai thuốc lá. Tôi cũng thuộc loại các Toán Trưởng chịu chơi, thường che chở và bật đèn xanh cho tụi nhỏ muốn làm gì thì làm, nhưng đi hành quân thì tuyệt đối phải giữ đúng tiêu lệnh chung. Tôi biết tụi nhỏ cũng than lắm, nhưng chịu khó vài ngày mà được trở về an toàn bộ không sướng hơn sao?


Ngày N+1
Phi cơ lên vùng rất sớm. Chúng tôi báo cáo trong đêm vô sự và bắt đầu di chuyển theo lộ trình. Đường đi rất khó vì B-52 oanh tạc, cây cối đổ ngổn ngang cùng hướng tiến của chúng tôi. Vì phải đi qua các hố bom đường kính trên 15-20 thước nên di chuyển rất chậm vì phải định hướng lại hoài. Buổi trưa trên con đường mòn nhỏ, trên đỉnh của một ngọn núi thấp chạy theo hướng Tây-Bắc – Đông-Nam, chúng tôi phát giác gần 25 cái chòi nhỏ, vuông, mỗi cạnh khoảng 3 thước. Sạp được lót bằng tre cách mặt đất khoảng 5 tấc. Các chòi này được bọc quanh bằng phên tre phết đất, cao khoảng 1 thước, bên trong chứa đầy lúa khoảng 8 tấc. Phần 2 tấc bên dưới chứa trấu. Ngăn đôi giữa lúa và trấu là một lớp lá rừng. Các chòi có nóc cao hơn 2 thước, lợp tranh, mái chòi chạm đất. Chòi đã thấp, lại được làm dưới tầng cây cao nên phi cơ quan sát khó thấy được. Tôi báo cáo lên FAC xin chỉ thị ở nhà và được lệnh cứ tiếp tục di chuyển. Hướng dẫn cho FAC thấy mục tiêu xong, chúng tôi sẽ di chuyển để FAC hướng dẫn khu trục đến oanh tạc bằng bom Napalm.
Tôi cho đốt một chòi để FAC thấy. Sau đó, toán chúng tôi di chuyển nhanh xuống triền núi. Lúa gặp tranh và phên tre nên bùng cháy rất nhanh. Lúa chỉ đổ tràn xuống thôi chứ không cháy được. Không biết bom Napalm có làm cháy hết số chòi lúa này không? Chung quanh không có rẫy trồng lúa. Di chuyển số lượng lúa này từ xa đến đây chắc địch phải mất rất nhiều ngày và nhân lực. Khi đến chân núi, chúng tôi thấy 2 chiếc F4-C Phantom từ trên cao bổ nhào xuống, thụt bom Napalm rồi bay vụt qua đầu chúng tôi. Tôi mong cho những đồi lúa bị cháy. Lúa đổ xuống đất chỉ cần có mưa hoặc sương đêm cũng đủ làm cho lúa nẩy mầm là không dùng được rồi. Buổi tối hôm đó chúng tôi đóng quân cạnh một con suối nhỏ. Trời vừa xụp tối đã nghe có tiếng xe di chuyển ở hướng Tây. Tiếng xe hú to chứng tỏ là xe đang phải chở nặng, hoặc cố vượt qua các dốc cao hay suối cạn. Tiếng bom B-52 nổ suốt đêm về hướng Bắc khiến mặt đất và cây cỏ rung lên từng chập sau mỗi đợt tiếng nổ. Tuy nhiên, sau đó đêm yên tĩnh…



Ngày N+2
Vừa di chuyển theo suối khoảng 200 thước, chúng tôi cặp dọc theo 2 bên con suối trong một khu rừng thấp và phát hiện một chỗ đóng quân cho khoảng từ 150 đến 200 người trở lên. Mỗi chỗ đóng quân cá nhân gồm có 2 cây thiên nhiên hoặc 2 cây trụ, đuợc chôn khoảng cách vừa tầm để buộc võng. Phía trên 2 cây có buộc một cây ngang để máng lều cá nhân. Hai cây ngang tôi đoán dùng để gác súng và một sạp nhỏ để ba-lô. Chung quanh thật sạch sẽ, không một ngọn cỏ, không một chiếc lá, chứng tỏ là được dùng đóng quân thường xuyên. Có lẽ đây là một binh trạm đóng quân của chúng giữa 2 chặng đường. Chắc chắn gần đây phải có nhà hoặc có cơ sở của binh trạm này. Tôi chụp hình và cho lệnh lục soát rất kỹ. Qủa nhiên trên một ngọn đồi thấp, cạnh con đường mòn lớn không có dấu vết xe di chuyển, chúng tôi phát giác 1 căn nhà sàn nhỏ và 4 căn nhà trệt nằm dưới cây cổ thụ cao. Chúng tôi dè dặt tiến vào. Đúng là một binh trạm rồi! Đồ đạc vất vương vãi, dép râu, điếu cày, mấy cái chén xanh và một cái tô mép mó. Dưới đất có 2 bếp nhỏ và mấy đôi đũa… chứng tỏ là địch đã bỏ đi thật gấp.
Một bàn viết làm bằng tre, ghế cũng bằng tre. Trên bàn có một lọ mực tím. Trên phên vách treo mấy cái áo trận đã rách, một tấm lưới bắt cá, lưỡi và dây câu. Chúng tôi lục soát thật kỹ và tìm thấy một tờ giấy nhỏ như giấy học trò, viết bằng mực tím. Giấy bị ướt nên chữ nhòe đi, không đọc được gì cả. Bốn căn nhà trệt có lẽ dùng để chứa lương thực vì thấy có ít gạo và bắp rơi xuống đất. Chúng tôi đốt tất cả 5 căn nhà này. Tiếng tre nứa cháy nổ ầm ầm như đụng trận. Chúng tôi di chuyển thật nhanh và tìm chỗ đóng quân đêm. Tối hôm đó vẫn còn nghe tiếng xe di chuyển mãi gần đến khuya mới dứt.


Ngày N+3
Buổi sáng hôm đó, FAC bay lên và chuyển cho chúng tôi một công điện: Cứ giữ hướng di chuyển cũ, chú ý lục soát kỹ, bung rộng trong trục tiến quân vì hướng này là một nhánh hay một xương sườn của đường mòn Hồ Chí Minh chạy vào Tam Biên. Công điện cũng cho biết thêm là trục tiến quân của địc vào Benhet chỉ chung quanh đây thôi. Tôi bàn với Thượng Sĩ Meadows, nếu lục soát rộng sẽ làm chậm sự di chuyển của toán. Meadows đề nghị chia toán ra làm đôi; lục soát rộng 2 bên bờ suối, cặp theo con đường mòn nhỏ mà chúng tôi đã gặp hôm qua. Tôi không đồng ý vì nếu chia đôi toán ra thì khó liên lạc và yểm trợ cho nhau. Trước nay, chúng tôi thường để một nửa toán nằm lại tại chỗ, còn một nửa toán kia đi lục soát để biết có điểm hẹn mà trở về. Chia đôi thì không đúng nguyên tắc, mặc dù có thể lục soát một chu vi rộng hơn.
Tôi vẫn giữ đội hình cũ và di chuyển chếch về hướng Bắc vì 2 đêm liền đều nghe thấy có tiếng xe di chuyền ở hướng này. Khoảng gần trưa, chúng tôi phát giác 2 căn nhà cất thật thấp trên một diện tích 8 x 10 thước. Nền nhà được đào sâu xuống khoảng gần một thước, đất được đắp chung quanh. Vì mái nhà cất chạm đất và lại ở dưới tàn cây cao nên đến gần chúng tôi mới phát hiện. Một thang gỗ khoảng 3 bậc dùng để lên xuống, hai bên là 2 dãy xạp tre. Đầu nhà phía bên kia cũng có thang lên xuống. Một phía đầu nhà có một chái nhỏ dùng làm bếp, có hai cái lò, một lò kẹp 2 con cá nướng còn đang nằm trên bếp. Cá đã cháy khét. Tôi thò tay vào tro thếy còn hơi âm ấm. Có lẽ tụi chúng đã bỏ đi chiều hôm qua. Căn nhà bên kia khoảng 4 x 8 thước, bên trong có một bàn viết, sạp ngủ làm bằng tre. Một quyển sổ bìa xanh loại giấy học trò ghi tên tuổi các bệnh binh. Có lẽ đây là một bệnh xá thuộc binh trạm mà chúng tôi đã phát hiện ngày hôm qua. Sổ ghi bệnh nhân phần nhiều là phù thủng, sốt rét và kiết lỵ. Tôi đếm và cộng lại sổ ghi mỗi tháng thấy có từ 17 đến 25 tên có mặt ở trạm xá này. Tổng số chết cũng gần chục tên. Bệnh xá có ghi tên một bác sĩ và hai hộ lý, đều là tên đàn ông. Như vậy, hộ lý và y tá cũng còn có tên riêng là nữ cán bộ, dùng để phục vụ sinh lý cho các cán bộ cao cấp địch. Chúng mày bỏ của chạy lấy người thì chúng ông đốt nhà chúng mày vậy. Chiều nay lại được dịp nghe tre nứa cháy nổ ầm ầm như pháo Tết! Đêm hôm đó nghe tiếng xe di chuyển gần chúng tôi hơn…


Ngày N+4
Buổi sáng sau khi báo cáo với FAC trong đêm an toàn, chúng tôi bàn với nhau: Qua phát hiện trong 2 ngày nay, chắc chắn tuyến đường xâm nhập vào vùng Tam Biên phải ở gần đây. Tuyến đường này gần như nằm song song với trục tiến quân của chúng tôi. Có thể là hướng Bắc của con suối hay nằm ở phía Nam con suối. Tôi quyết định đổi hướng và toán di chuyển về hướng Bắc, không tiến vào mục tiêu như đã dự trù. Tôi liên lạc với FAC cho biết ý định mới của toán và chiếu gương xin FAC xác nhận vị trí điểm đứng của toán. FAC cho tọa độ hiện tại của toán, so với tọa độ chúng tôi xác định thì chỉ cách nhau không qúa 100 thước. Chúng tôi tiến về hướng bắc di chuyển khoãng 200 thước; toán phát giác một đường mòn nhỏ bề ngang khoãng hơn một thước láng, sạch, không có một cọng cỏ. Theo kinh nghiệm thì đường mòn như thế này phải được sử dụng hàng ngày rồi. Tôi bước dọc theo lề đường khoảng 10 thước, nhìn về phía Tây khoảng 100 thước thì bị che khuất. Có lẽ đó là khúc quanh mà con đường chạy theo đoạn cong của dòng suối.
Quan sát về phía Đông của đường mòn thấy xa hơn khoảng 200 thước thì con đường đi xuống thấp dần, vì đường mòn chạy theo triền đồi thoai thoải xuống. Vừa định lấy máy hình ra chụp, tôi bỗng nghe có tiếng ồn ào về hướng Tây. Vội thụt lui vào phía trong thì đã thấy một đoàn người vừa xuất hiện ở khúc quanh con đường. Dẫn đầu là một tên quần xanh, áo trận vàng, đầu đội nón cối, tay cầm một cây gậy dài, vai quàng một miếng vải dù bông, vừa chạy vừa hô: ”Khẩn trương – Khẩn trương – Khẩn trương”. Phía sau là một đoàn người gần như chạy lúp xúp mặc đồ trận xanh, nón cối, giầy vải, khiêng những khúc dài được bọc bằng giấy mầu ô-liu, không biế là sơn pháo hay phòng không. Có tên gánh, có khi cả 2 tên khiêng một thùng gỗ hoặc thùng sắt. Tôi đứng như trời trồng vì chỉ cách chúng không đầy 5 thước! Bờ suối thì cũng cách tôi khoảng chừng 5 thước.
Tôi nhích dần, nhích dần xuống suối. Nếu trời xui khiến chỉ cần có tên nào dừng lại là thấy tôi ngay. Tôi nhìn Thượng Sĩ Meadows và 2 tiền sát viên Lý A Dưỡng và Wòng A Cầu đang nằm bẹp bên bờ suối, nước tới thắt lưng, mặt người nào cũng nghệt cả ra. Cuối cùng, tôi cũng thụt lui tới mép suối. Tôi vừa ngồi thụt xuống bờ suối thì đoàn quân của địch cũng vừa vượt qua. Tôi nhích dần về phía Thượng Sĩ Meadows, đưa ngón tay ra dấu hiệu đúng là mục tiêu rồi. Tôi hỏi nhỏ: ”Mày đoán xem đoàn quân vừa đi qua độ chừng bao nhiêu?”. Nó đoán khoảng hơn 150 người. Tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu nói khoảng 300. Tôi đoán trên dưới cũng khoảng 200 thôi. Tôi ra dấu cho Thượng Sĩ Meadows trở về phía bên kia suối bảo Trung Sĩ Charles liên lạc với FAC báo cáo hiện tình. Để thằng Dưỡng ở lại với tôi, tôi bảo thằng Cầu cho toán nhích sâu vào trong thêm 15 thước trên một ngọn đồi nhỏ. Chờ khoảng không hơn 20 phút sau cũng không thấy toán quân địch nào di chuyển qua. Thượng Sĩ Meadows lội sang, tay cầm máy quay phim. Cùng lúc này, tôi nghe tiếng phản lực cơ gầm thét cùng với tiếng ầm ầm ở hướng Đông mà đoàn quân xâm nhập của địch vừa đi tới. Thượng Sĩ Meadows nói nhỏ vào tai tôi: ”Tôi đã liên lạc với thằng FAC, nó điều động các phản lực cơ đang có mặt ở trong vùng ưu tiên đánh cho bọn mình. FAC cũng cho biết đã xin các phi xuất từ Đà Nẵng đang trên đường đi yểm trợ theo lời yêu cầu và hướng dẫn của toán.”. Nó còn cho biết thêm là đã cẩn thận trải panô bên kia bờ suối khoảng 10 thước và FAC đã thấy tọa độ của mình rồi. Tôi cũng khoái. Như vậy là chắc ăn như bắp. FAC cũng khôn, nó chỉ bay ở xa xa chứ không ở trên đầu chúng tôi.
Ở bờ suối bên này chỉ có tôi, Meadows và thằng Dưỡng. Thằng Meadows gần như nằm hẳn xuống suối, từ thắt lưng trở xuống ngâm hẳn dưới nước suối. Nó để máy quay phim ghếch ống kính lên chờ quay. Tôi đứng rùn người, hơi nghiêng bên cạnh thân cây gỗ mục chờ chụp hình. Khoảng 15 phút sau, ở khúc quanh hướng Tây xuất hiện một toán khoảng chừng 15 tên, vượt qua chỗ chúng tôi đang núp với những bước chân sải thật dài. Cũng quân phục xanh, nón cối, giầy vải và dép râu lẫn lộn, lưng mang balô có vắt nhánh cây. Tên nào cũng chống một cây gậy nhưng không thấy mang vũ khí hay khiêng vác vật gì cả, khác với toán vừa vượt qua. Toán này tất cả đều sồn sồn khoảng 40-50 tuổi.
Mặc dù tiếng suối chẩy rì rào nhưng tiếng máy chụp hình của tôi cũng nghe rõ mồn một. Tôi quay sang Meadows, mặt nó đỏ ngừ, đang loay hoay với cái máy quay phim bị trở ngại sao đó. Nó nhích dần về phía tôi nói nhỏ: ”Tôi đem máy trở qua bên kia cho thằng Charles coi lại, không hiểu tại sao máy lại tự nhiên không ”run” ?”. Tôi ra dấu cho nó ngầm bảo được rồi và đưa máy chụp hình ra nói nhỏ: ”Đừng lo, còn có cái này.”. Khoảng 10 phút trôi qua, chúng tôi lại thấy một toán nữa xuất hiện. Quân phục cũng giống như toán vừa vượt qua lúc đầu. Cũng khá đông, gần 100 tên. Không biết thuộc đoàn vừa qua rớt lại phía sau, hay chúng chia ra từng nhóm nhỏ để tránh phi cơ quan sát thấy. Đặc biệt nhóm này không có tên dẫn đường. Toán này vượt qua được gần 20 phút rồi mà vẫn không thấy thằng Meadows quay trở qua. Tôi ra dấu cho thằng Dưỡng trở về bờ suối bên kia. Thằng Meadows đang nhăn nhó lắc đầu cho biết máy quay phim của nó không sử dụng được. Tôi nói: ”Tao chụp được nhiều hình lắm rồi”. Trong lúc đó phản lực cơ đang thả bom ầm ầm ở hướng Đông. Tiếng bom nổ như sát bên cạnh chúng tôi. Lúc này đã hơn 12 giờ trưa, mấy thằng nhỏ của tôi chắc cũng có gì bỏ bụng rồi. Tôi ra dấu cho thằng Meadows kiếm gì ăn đi. Nó lắc đầu và đưa bi-đông nước lên làm dấu. Tôi thấy thằng này đi hành quân ăn rất ít, thường thường chỉ một hộp trái cây nhỏ cho cả ngày.
Tôi liếc một vòng thấy mấy thằng nhỏ đang ẩn nấp thật kỹ sau những thân cây to. Tôi, thằng Meadows và Charles bắt đầu hướng dẫn cho FAC đánh chính xác hơn. Giờ phút này, ở con đường mòn phía bên kia bờ suối lại thấy xuất hiện một toán quân khác. Đoàn này trang phục cũng quần áo trận xanh, lưng đeo ba-lô vắt lá ngụy trang. Đặc biệt tất cả đều mang vũ khí cá nhân, phần nhiều là AK-47, không thấy có súng lớn như đoàn đầu tiên. Chúng gần như dồn cục vào nhau, vừa đi vừa chạy. Nhờ tấm pa-nô trải làm dấu phía sau chúng tôi nên FAC thấy vị trí toán rất rõ. Do đó, lần này khu trục đánh bom con đường mòn trước mặt chúng tôi không qúa 50 thước. Nghe tiếng khu trục gầm thét, bọn chúng ngừng lại và đứng tạt ra hai bên đường. Một tràng đại liên từ khu trục bắn cày dài theo mặt đường tới bờ suối bên kia. Bị khu trục bắn thẳng vào đoàn quân nên chúng chạy náo loạn và kêu la ầm ĩ. Vì rừng già nên bên dưới rất trống trải nên thấy có rất nhiều xác chết nằm rải rác trên đường. Một số tạt về phía bờ suối hướng toán chúng tôi đang đứng phục kích. Lần này, khu trục bắn nhiều tràng đại liên dọc theo bờ suối. Lại nhiều tên nằm bên bờ suối bị ngã gục.
Về hướng Bắc cây cối thưa hơn nên chúng tôi quan sát thấy có thêm một toán địch mới xuất hiện. Chúng bị dồn cục lại và nằm phục 2 bên con đường. Thằng Meadows vội giành lấy ống liên hợp trong tay thằng Charles, hướng dẫn FAC đánh mục tiêu hướng Tây Bắc và hướng Bắc. Có lẽ chúng thấy khu trục chỉ bắn con đường mòn và phía bờ suối nên đổ dồn về phía này.


Hết khu trục A1-E rồi phản lực F4-C thay phiên nhau quần thảo phía Bắc con suối, cách chỗ chúng tôi khoảng 50-60 thước. Tiếng bom, tiếng đạn và tiếng la vang từng chập. Tiếng bom đạn vừa ngừng là bọn chúng lại chạy về hướng Đông của đường mòn. Chưa bao giờ tôi thấy khu trục yểm trợ ngoạn mục như vậy. Nhiều tràng đại liên cài dọc theo con suối chỉ cách chúng tôi không qúa 50 thước. Tôi nghĩ chỉ cần một viên đạn ”bụi đời” bỏ đi bậy bạ là toán chúng tôi có người bỏ mạng rồi. Phi cơ đánh từ Đông sang Tây phía trước mặt chúng tôi. Hướng Bắc không nhìn thấy địch nhưng về hướng Tây trên một ngọn đồi thấp có nhiều tảng đá to, tôi thấy địch đang tập trung và ẩn nấp quanh mấy hòn đá lớn lố nhố.
Tôi ra dấu cho Thượs Sĩ Meadows lại gần chỉ cho nó thấy và nói: ”Mày gọi FAC và xin 2 phi xuất Napalm đi”. Nó nói OK và bò lần về phía thằng Charles. Trong lúc đó ở hướng Đông Bắc bỗng có đại liên phòng không 37 ly nổ ”chụp chụp”. Từng cụm khói trắng bung lên mỗi lần phi cơ đảo xuống. Không biết FAC có điều động không nhưng tôi thấy có một khu trục tách ra, lao về hướng có phòng không vừa bắn lên. Sau mấy loạt đạn và 2 tiếng bom nổ, súng phòng không này im luôn. Không biết bị tiêu diệt hay tụi nó sợ không bắn nữa.
Thượng Sĩ Meadows bò lại cho biết sẽ có trực thăng võ trang bay lên yểm trợ. Tôi nói ”Good!”. Vừa nói xong thì tiếng lạch bạch của 4 trực thăng võ trang Cobra cũng vừa lao tới. Hai chiếc bay vòng bên ngoài, hai chiếc kia lao vào phụt rocket và đại liên. Hỏa lực trực thăng cũng mạnh lắm nhưng tụi địch không ngán trực thăng, vì chúng tôi nghe thấy nhiều tràng AK bắn lên phi cơ. FAC có lẽ được trực thăng báo cho biết có hỏa lực bên dưới bắn lên nên nó bay vào vùng mục tiêu và đảo trên đầu chúng tôi. Mấy tên sống sót từ trưa đến giờ nhờ núp bên mấy khe đá, thấy ngọn đồi bên phía chúng tôi đang đứng không bị oanh kích cho nên tôi nghe tiếng la: ”Tất cả tiến sang bên phải”. Hai, ba tên lụp xụp bám thành suối leo lên chạy về hướng ngọn đồi chúng tôi đang bố trí. Hai thằng chạy đầu vừa lên khỏi bờ suối bên này thì ”rẹt rẹt”, thằng Dưỡng nhả 2 loạt súng giảm thanh. Hai tên này gục xuống. Thằng thứ ba vội tụt xuống, lui lại nấp vào hòn đá to giữa suối. Thằng Dưỡng khạc thêm mấy loạt đạn nữa nhưng đạn chỉ chạm vào đá rồi rớt xuống suối nghe bụp bụp. Bỗng tên này la to ”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”. Thằng Sáng lanh lẹ thẩy một trái mini sau lưng tên này. Tiếng nổ của lựu đạn mini hất tung nó lên, phơi nửa người nằm trên phiến đá.
Sau tiếng lựu đạn, tôi nghe có nhiều tiếng la ở hướng Tây ”Có Biệt Kích gián điệp, Biệt Kích gián điệp!”. Tôi ra dấu cho cả toán chuẩn bị. Chúng tôi đã bị địch phát giác rồi. Có thêm mấy bóng theo các thân cây khum khum tiến về phía chúng tôi, bắn mấy loạt đạn AK dò dẫm. Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn dẫn bán tổ rút trước về hướng Nam. Bán tổ còn lại cũng rút chầm chậm theo. Giờ này ở bờ suối bên này đã có khoảng mười mấy tên bò lên đồi rồi. Thằng Meadows từ sáng tới giờ chắc cũng ngứa tay nên chồm lên nhả nguyên một loạt đạn. Tiếng AK bắn ào ào xả vào chúng tôi lúc chúng tôi vừa yểm trợ cho nhau vừa rút.



Bốn chiếc trực thăng đảo qua đảo lại, bắn đại liên ngăn chặn phía sau chúng tôi. Vỏ đại liên và sắt két đạn rơi lên đầu lên cổ chúng tôi nóng bỏng. Có lẽ tụi trực thăng thấy chóp mũ chúng tôi có dấu hiệu mầu cam nên tụi nó bắn thật chính xác, không sợ lầm vào quân bạn. Mặc dù trực thăng yểm trợ rất mạnh, thế mà tụi nó cũng đuổi theo chúng tôi hơn 500 thước. Lúc này cũng gần 6 giờ chiều. Bây giờ chúng tôi mới bắt đầu thấy đói và khát. Tôi ra dấu cho toán ngừng lại để bố trí ăn cơm. Từ sáng đến giờ, vì qúa mệt và căng thẳng nên tôi chỉ nuốt trôi nửa lon Fruit-Cocktail.
Trong công điện buổi trưa chúng tôi nhận được thì Chiến Đoàn cho lệnh ngày mai chúng tôi phải tìm bãi đáp triệt xuất gấp. Tôi đoán B-52 sẽ ”tapi” vùng này khi chúng tôi triệt xuất ra xong. Sau khi dùng cơm chiều, chúng tôi chờ trời tối hẳn mới di chuyển khỏi nơi này khoảng 200 thước tìm chỗ đóng quân. Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi nghe từng tràng tiếng nổ ầm ầm. Mỗi lần sau tiếng nổ là ánh sáng lóe lên, sáng như ban ngày. Thằng Meadows cho biết máy bay C-47 đang ”chụp hình” tụi nó bằng bom! Lần đầu tiên tôi mới nghe như thế. Cuộc chiến này có nhiều điều thật mới lạ. Vì sợ tụi VC theo dõi đột kích trong đêm nên tôi cứ chập chờn không dám ngủ.

Ngày N+5
Buổi sáng báo cáo với FAC xong, chúng tôi cho biết là bãi đáp triệt xuất chưa có. FAC hướng dẫn chúng tôi về phía Tây Nam khoảng 300 thước thấy có một bãi đáp nhỏ, có thể dùng để triệt xuất được. Trong lúc chuẩn bị di chuyển, tôi nhìn về phía Đông Nam khoảng 300 thước thấy hình như có một làn khói nhỏ lơ lửng bay lên. Tôi chỉ cho thằng Meadows, nó nói có lẽ là sương. Buổi sáng nắng lên làm tan phần sương trên ngọn cây nên nhìn thấy có ánh sáng mầu vàng lợt. Nhưng nếu nhìn từ mặt đất trở lên 2-3 thước thì thấy sương mù còn lãng đãng. Quan sát một hồi, thằng Meadows nói có lẽ là khói. Tôi cũng còn chưa quyết định hẳn đây là sương hay khói. Nếu là khói thì có lẽ vì các đám cháy do bom đánh ngày hôm qua tạo ra. Nhưng sau khi quan sát kỹ, tôi thấy làn khói bay lên thẳng như tạo ra bởi một đống lửa nhỏ, giống như khói bếp vậy. Hướng này là hướng con đường mòn chạy bọc theo suối, trải dài về hướng Đông mà các phi tuần phản lực đánh chặn địch ngày hôm qua. Thay vì di chuyển về hướng Tây Nam theo phi cơ quan sát chỉ để tìm bãi đáp, tôi cho toán di chuyển về hướng Đông Nam, tiện việc lấy nước ở suối và quan sát xem đó có phải là khói không?
Chúng tôi thấy cạnh con suối có một căn chòi nhỏ. Kích thước chòi này cũng giống như những căn chòi mà chúng tôi phát hiện có lúa mấy ngày trước. Chòi không có lúa, chỉ còn lại toàn trấu. Vì được cất gần suối nên sàn nhà cao hơn một thước. Chúng tôi tản ra và chuẩn bị ăn sáng. Từ hôm đi đến nay mới nghe thằng Charles mở miệng: ”Nếu được phép ngủ, tôi sẽ nằm dưới chòi này ngủ 3 ngày liền”. Trong toán, nó là thằng phải mang nặng nhất. Ngoài những trang bị như mọi người, nó còn cõng thêm một máy truyền tin PRC-25, một máy ngụy tần số gắn liền với PRC-25 cộng thêm một cục pin trừ bị. Nghe nó nói muốn ngủ, mắt tôi cũng muốn sụp xuống! Tôi tháo ba-lô ra, tròng giây súng vào cổ, bước lên một thân cây to đổ vắt ngang qua suối để ra giữa suối khoát nước rửa mặt. Vừa ngồi xuống, chưa kịp đưa tay khoát nước, nhìn về phía trái khoảng 15-20 thước tôi chợt thấy có móc 3-4 chiếc võng. Có chiếc còn căng poncho làm lều. Tôi đưa tay ra dấu có địch, nhưng ngoái lại chẳng thấy có đứa nào nhìn thấy thủ hiệu của tôi cả. Ai nấy đang chuẩn bị ăn sáng! Tôi vừa thụt lui nhưng mắt vẫn quan sát mấy cái võng, tay vẫn đưa ra sau làm dấu có địch. Chân tôi vừa đặt suống đất thì Thượng Sĩ Sơn cũng vừa ngó thấy thủ hiệu có địch của tôi. Nó chồm tới phát vào vai thằng Dưỡng và thằng Meadows ngồi gần đó, ra dấu có địch. Bây giờ thì cả toán đã được báo động. Tôi cho toán biết là quan sát thấy có 3-4 cái lều võng nhưng không thấy có người. Tôi cho lịnh rất nhanh: Tôi, thằng Dưỡng và thằng Meadows bò qua trước. Thượng Sĩ Sơn, thằng Cầu, thằng Sáng yểm trợ. Phần còn lại bố trí bên này.
Buổi sáng nước lạnh như nước đá, cũng may nước chỉ cao hơn đầu gối một chút thôi. Chúng tôi bò lên khỏi bờ suối khoảng ba thước thì thấy một tên từ võng ngồi dậy. Thằng Dưỡng hốp tốp kêu: ”Đứng dậy – Dơ tay lên!”. Tên này đang lúng túng, có lẽ còn vướng một chân trên võng nên chưa bò xuống được. Tôi và thằng Meadows vọt nhanh tới. Thằng Meadows nắm vai tên này lật té xuống đất. Hai tên khác vụt bỏ chạy. Hai tên này đang ngồi khuất dưới đất nên chúng tôi không thấy. Thật nhanh, thằng Dưỡng đưa nguyên một băng giảm thanh. Một thằng ngã, còn thằng kia chúng tôi thấy nó phóng xuống đất, nhưng khi chạy đến tìm thì không thấy có máu và người đâu cả. Tên kia bị bắn trúng, lãnh cả gần chục viên ở bụng. Tôi quay trở lại chỗ thằng Meadows thì thấy nó đã còng tay tên vừa bắt được bằng còng nylon, miệng dán băng keo xanh.
Bỗng tôi nghe tiếng Thượng Sĩ Sơn hô: ”Đứng lên! Đưa 2 tay lên khỏi đầu”. Thì ra cách chúng tôi khoảng 5-6 thước có một tên khác đang đi cầu. Thấy lộn xộn nó ngồi im tại chỗ, nhưng không ngờ bị Thượng Sĩ Sơn phát giác. Tên này đứng lên, 2 tay đưa lên đầu nên không kéo quần lên được, để ”Bác Hồ” lòng thòng coi tức cười qúa. Thượng Sĩ Sơn bước đến, chĩa súng sau lưng nó nói: ”Cài quần lại!”. Tên này lúng túng kéo quần lên, miệng hỏi: ”Các đồng chí ở đơn vị nào?”. Thằng Cầu nạt: ”Im mồm mày!”. Nó được dẫn lại gần chỗ tôi và thằng Meadows đang đứng. Thấy thằng Meadows to lớn như con gấu, râu ria 5-6 ngày chưa cạo thì nó biết ngay chúng tôi là ai rồi nên không hỏi nữa. Thằng Meadows kéo tay nó xuống, quặt ra sau lưng tròng dây còng vào. Nó dẫy dụa nói: ”Các anh phải đối xử tử tế với tù binh”. Thằng Cầu đá vào đít nó rồi nói: ”Con c… ông nè chứ tử tế. Tụi mày bắt được tụi tao có tử tế không?”. Thằng Meadows trong tay đã cầm sẵn miếng băng keo chụp dán miệng tên đó câm luôn.



Tôi ra dấu rút. Trong lúc Thượng Sĩ Sơn và tụi thằng Dưỡng, thằng Cầu hối hả tháo võng và lều bỏ vào ba-lô tụi nó, nhìn thấy cây AK dựng ở góc cây, tôi chỉ thằng Sáng cho nó cầm luôn. Chúng tôi trở qua chòi họp toán lại rồi bắt đầu rút. Thằng Meadows nói nhỏ với tôi: ”Sir, chờ tôi báo cáo với FAC biết mình đã bắt được 2 tù binh rồi hãy di chuyển”. Trông gương mặt nó vui như được kẹo. Tôi lẩm bẩm trong bụng “Tiên sư anh. Có chiến lợi phẩm anh gọi tôi bằng Sir ngọt sớt.”. Tôi nói OK và tính rất nhanh trong đầu. Nếu di chuyển đến bãi đáp do FAC chỉ lúc ban sáng thì qúa xa. Vướng 2 tên tù binh không di chuyển nhanh được, lỡ chạm địch lại càng thêm rắc rối. Nếu mấy tên này thuộc toán tiền tiêu của đơn vị địch thì tên chạy thoát vừa rồi về sẽ báo cáo, và lúc đó địch sẽ truy kích chúng tôi ngay.
Thằng Meadows đưa ngón tay cái lên làm dấu là đã báo cáo cho FAC xong. Tôi cho nó biết mình phải phá cây làm bãi đáp cho trực thăng xuống. Nó không suy nghĩ nói OK ngay. Tôi quan sát thấy hướng Đông Nam có đám rừng thưa, toàn là cây chồi, không to lắm. Tôi cho lịnh toán tiến về hướng đó. Đi được khoảng 200 thước thì thấy dưới triền đồi hơi thoai thoải, rừng thưa, cây to chỉ bằng bắp vế. Đảo mắt nhanh một vòng, ước lượng chu vi rộng đủ cho một trực thăng đáp xuống được mà cánh quạt phải không chém vào cây, tôi quyết định chọn nơi này làm bãi đáp. Vì là triền đồi nên nước chẩy xuống tạo thành một khe khá sâu như một con suối cạn. Tôi bảo đẩy 2 thằng tù binh xuống dưới đó. Định tọa độ xong, đưa cho thằng Charles gửi lên cho FAC. Một mặt, tôi cho lấy giây chuyền nổ quấn chung quanh các thân cây, định bụng sẽ cho nổ mấy cây này trước vài phút để lấy chỗ cho trực thăng đáp xuống. Nuôi quân 3 năm, xài trong 15 phút. Với tay nghề của thằng James và 2 toán viên của tôi, việc dọn bãi trực thăng bằng chất nổ là 1 trong 15 bài dễ nhất của khóa “”Mìn bẫy & Phá hoại”. FAC cho biết trực thăng đã cất cánh. Nhìn đồng hồ, tôi tính phải 40 phút nữa trực thăng mới tới.
Đi một vòng thấy mấy thằng nhỏ bố trí và cảnh giác cao nên tôi ngoắc thằng Meadows lại chỗ con mương, nơi Thượng Sĩ Sơn đang giữ 2 tù binh. Tôi ra hiệu cho Thượng Sĩ Sơn lên, tôi và thằng Meadows nhẩy xuống. Tôi phải khai thác tụi này vài câu mới được. Nhỡ khi bị địch truy kích, chắc chắn là phải thanh toán 2 tên này. Biết được vài tin tức, ít ra cũng được một vài tin để báo cáo. Trong 2 tên thì tên lớn tuổi bị bắt lúc đi cầu đang dãy dụa như muốn tháo dây còng, miệng cứ ú ớ hoài. Thượng Sĩ Sơn nói: ”Nó đi cầu chưa chùi nên thúi hoắc à”. Meadows ngó tôi hỏi Sơn nói gì? Tôi nói “Nó bảo kỳ này về mày sẽ được lên lon”. Thằng Meadows cười, biết là tôi nói đùa với nó.
Tôi gỡ băng keo khỏi miệng 2 tên tù binh rồi nói: ”Các anh hãy ngoan ngoãn, đừng có chống cự gì cả. Bắt buộc vì an toàn, chúng tôi mới phải còng các anh lại thôi”. Tôi nhìn tên lớn tuổi nói tiếp: ”Loại còng này anh tuột không thoát được đâu. Càng dãy dụa, răng cưa càng xiết chặt. Bây giờ tôi muốn mở ra cũng không được, vì răng cưa vào thì xuôi, còn tháo ra thì ngược. Đợi về đến nhà có kềm tôi sẽ cắt ra”. Tôi chỉ vào tên nhỏ tuổi nói: “Ngoan ngoãn như thế này có phải tốt không?”. Tôi hỏi bọn nó có muốn uống nước không? Chỉ có tên nhỏ gật đầu. Tôi lấy bi-đông cầm cho nó uống. Hỏi có muốn hút thuốc không? Tên nhỏ gật đầu. Tôi ra dấu xin Thương Sĩ Sơn điếu thuốc. Thượng Sĩ Sơn đưa cho tôi một nửa điếu thuốc Pall-Mall. Tôi mồi lửa rồi cầm cho tên tù binh nhỏ tuổi hút. Tôi hỏi nó: ”Thuốc lá của Đế Quốc Mỹ đó, có ngon không?”. Nó gật đầu.



Tôi bắt đầu hỏi tên tuổi và đơn vị tên nhỏ trước. Nó cho biết tên là Nguyễn Tiến Hùng, 19 tuổi, quê ở Phú Thọ, thuộc đoàn Khánh Hòa 13. Từ ngày khởi hành xâm nhập vào Nam, tính đến ngày hôm nay bị bắt đúng 2 tháng. Nó cũng cho biết ngày hôm qua, đoàn của nó bị phi cơ oanh kích, thiệt hại rất nặng. Nó vàmột nhóm chạy toán loạn nên đã thất lạc đơn vị. Nó cũng nói thêm là đoàn của chúng nó bị thiệt hại nặng vì có Biệt Kích gián điệp chỉ điểm. Nó cho biết đoàn của nó là đơn vị vào Nam để bổ sung thôi. Lúc ra đi quân số là 300. Gần 100 tên rơi rớt lại tại các binh trạm, bị phù thủng, sốt rét, kiết lỵ và ”B quay”. B quay là đào ngũ, bỏ trốn về lại miền Bắc. Tôi mở ba-lô của nó ra xem thì thấy ngoài tấm bạt nylon còn có võng, một bộ đồ xanh ô-liu, một chăn mỏng mầu vàng, một mặt nạ phòng hơi độc, hai thỏi lương khô, một chén nhôm xanh, tất cả đều có dấu sản xuất tại Trung Cộng. Đặc biệt trong ba-lô có một tờ giấy thuộc loại nylon, không thấm nước, không bị mục và không bị mối ăn. Đấy là một loại truyền đơn mà chúng tôi thường bắt gặp, rải rất nhiều trong rừng. Trong đó có một bài thơ lục-bát, nội dung nói đại ý là người con vào Nam ngồi nhớ mẹ nơi đất Bắc, không biết số phận của mình và của mẹ già ra sao? Bài thơ được in chồng lên hình người lính Bắc Việt đang ngồi ôm súng gục đầu. Có lẽ truyền đơn này của một cơ quan tuyên truyền Hoa Kỳ, vì bài thơ có nhiều chữ không bỏ dấu. Nếu thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thì chắc chắn không có khuyết điểm này.
Tên lớn tuổi quê ở Thái Bình, 24 tuổi, tên Lê Văn Thành. Tôi hỏi: ”Các anh nói thất lạc đơn vị sao không đi tìm mà còn đóng quân ở đây?”. Nó nói phải chờ xem có còn bị phi cơ oanh kích nữa không, rồi mới tìm đường trở về binh trạm hôm trước chờ giải quyết, vì nếu không có giao liên thì không biết đường tới binh trạm sắp đến. Tôi xếp sổ tay lại, thấy hỏi như vậy cũng đủ rồi. Tôi không có đủ thời giờ, vả lại nên dành cho Ban Thẩm Vấn Tù Binh vì họ có kỹ thuật và kinh nghiệm nhiều hơn. Nhìn đồng hồ thấy còn gần 5 phút nữa trực thăng mới tới, tôi hỏi vớt tên Hùng thêm một câu: ”Ngoài Bắc anh có thấy cố vấn Nga không?”. Nó lắc đầu và cho biết: “Nghe nói các cố vấn người Nga chỉ ở các đội tên lửa mà thôi”. Tôi quay sang thằng Meadows nói tóm tắt cho nó biết. Thôi đủ rồi. Quăng ba-lô của 2 thằng tù binh lên trước, tôi và thằng Meadows leo lên sau rồi đưa tay kéo 2 đứa chúng nó ra khỏi rãnh nước.



Tiếng trực thăng H-34 nghe phành phạch từ xa. FAC đảo thật thấp trên đầu chúng tôi. Trực thăng võ trang cũng vừa tới, tuôn đại liên và rocket chung quanh bãi đáp. Thằng James và tụi thằng Cầu, thằng Sáng nhào ra tới các thân cây đã quấn giây chuyền nổ sẵn để giựt kíp nổ. “Ầm – Ầm – Ầm”. Năm sáu cây ào ào ngã xuống. Theo tiêu lệnh, 2 tù binh và bán tổ của toán lên trực thăng đầu tiên. Nhóm của tôi và thằng Meadows luôn luôn xuống trực thăng trước và lên trực thăng sau cùng. Thằng Nghĩa đáp xuống, thò đầu ra cửa sổ đưa tay vẫy tôi và đưa một ngón tay cái lên. Tôi cười và vẫy tay ra dấu đáp lại. Cây cối ngã ngổn ngang nhưng nó đáp xuống cũng đẹp lắm. Bánh xe trực thăng đặt gần chạm đất, do đó tụi tôi đỡ 2 tù binh bị trói tay bước lên bậc thang trực thăng cũng dễ. Trực thăng của thằng Nghĩa vừa kéo lên khỏi ngọn cây thì chiếc kia của thằng Hiếu cũng đáp xuống liền trong tích tắc.
Ngồi trên trực thăng bay về Dakto tôi nghĩ thầm: ”Khi giải trình hành quân, tôi sẽ cho biết địch bị phi cơ oanh kích chết hai, ba trăm tên. Không biết mọi người có tin không?”. Ôi mà cần gì? Hai tên tù binh này sẽ trả lời thay tôi. Tôi liên tưởng tới Đoàn Khánh Hòa 13 gần như bị tiêu diệt hết. Con số 13 đúng là xúi quẩy. Mặc dù tiếng cánh quạt trực thăng và tiếng gió thổi ào ào nhưng thằng Meadows ngồi ở cuối trực thăng cũng cố gào to:

-o- Tối nay 7 giờ, tôi chờ Sir ở Câu Lạc Bộ nghe?

-o- Tôi đáp: “OK”.

Lê Minh



Tuesday, July 7, 2009

Strata / Thượng Sĩ Hoàng Văn Hồng


Dơn vị SOG tuyển thêm nhân viên, mặc dầu kế hoạch 34A (miền Bắc) không còn là nỗ lực chính nữa, SOG có thêm nhiệm vụ mới. Ðến tháng Giêng năm 1967, SOG có 207 nhân viên, phía Việt-Nam đông đảo hơn, 470 người năm 1964, đầu năm 1966 tăng lên hơn 1700 người. Phần lớn những quân nhân này nằm trong hành quân Shining Brass (vượt biên qua Lào). Shining Brass đã bước qua giai đoạn thứ hai, xử dụng trung đội Hatchet tấn công các mục tiêu trên đất Lào do các toán biệt kích tìm ra.

Một trong những nhiệm vụ mới trao cho đơn vị SOG, tìm kiếm những quân nhân Hoa-Kỳ mất tích (MIA). Ðầu năm 1967, SOG phác hoạ chương trình khác Dọ-Thám Ðường, Tìm Mục-Tiêu Ngắn Hạn gọi tắt là STRATA. Kế hoạch này sẽ cho biệt-kích quân Việt-Nam xâm nhập vùng phiá nam của miền Bắc thâu thập tin tình báo và đem toán biệt-kích về khoảng bốn tuần sau. Kế hoạch này có vẻ giống như hành quân Shining Brass đã đổi tên là Prairie-Fire. Francois được chỉ định trông coi chương trình Strata.

Toán Strata đầu tiên qua Lào là Strata 111, phát xuất từ căn cứ hành quân tiền phương Khe-Sanh, được trực thăng H-34 King Bee (phi-đoàn 219 Long Mã) thuộc KLVNCH đưa đến mục tiêu. Vài giờ sau khi xâm nhập, toán biệt-kích phát giác địch có mặt ở khắp nơi. Công-điện bắt được của địch cho biết toán biệt-kích vào đúng ổ sư-doàn 325 Bắc Việt.

Toán biệt-kích Strata đội nón cối, mặc quân phục, trang bị AK-47 như lính Bắc Việt cho họ có yếu-tố bất ngờ trong những giây phút đầu với địch quân. Bị lộ, họ chạy xa mục tiêu khoảng năm cây số và yêu cầu được triệt-xuất khẩn cấp. Ðã tránh đưọc địch quân và tìm được bãi đất trống trải, họ được trực thăng H-34 đến bốc đưa về Ðà-Nẵng. Tháng Tám toán Strata 112, xâm nhập Lào từ căn cứ tiền-phương ở Dak-To trên Kontum. Nhiệm vụ của toán là dò thám một nhánh trên đường mòn Hồ chí Minh. Họ xuống an-toàn, ngày hôm sau di-chuyển dọc theo con đường, họ khám phá ra vài căn chòi. Sáng hôm sau nữa bị phát giác, toán Strata 112 lên máy yêu cầu triệt-xuất. Mặc dầu có nhiều mây che phủ, các phi-công H-34 vẫn vô được mục-tiêu đem toán biệt-kích về tới Dak-To an-toàn.

Các toán Strata kế tiếp chuẩn-bị ra miền bắc. Ngoài trang-bị như lính Bắc Việt, họ được mang theo máy truyền tin PRC-74 có thể liên lạc thẳng với máy bay thám thính bao vùng. Toán Strata 111 lần này có nhiệm-vụ dọ thám xe cộ của địch di-chuyển trên đường 101 trong tỉnh Quảng-Bình. Một nhánh đường nhập vào đường 12 trước khi đến đèo Mụ-Giạ rồi nối vào đường mòn Hồ-Chí-Minh. Toán biệt-kích đem theo ống nhòm đặt trên chân ba càng, toán sẽ theo dõi xe cộ của địch từ núi Khe-Sai gần đó.

Rạng đông ngày 24 tháng Chín, biệt-kích Strata lên trực thăng CH-3 trong căn cứ không quân Nakhon-Phanom bên Thái-Lan. Ðể tránh rườm rà, chỉ có bẩy người đi thay vì cả toán mười ba người. Thiếu-tá Wilgus lên chiếc C-130 chỉ huy chuyến thả toán Strata 111. Thiếu tá Alton Deviny lái chiếc CH-3 kể lại ‘Bọn tôi thả họ lúc trời vừa sáng, đỉnh núi chỗ họ xuống quá dốc và rừng thật rậm rạp’. Trong địa thế hiểm trở, có điều lợi là ít bóng dáng địch quân, tuy nhiên rất trở ngại cho toán biệt-kích lúc di-chuyển. Ðiều này toán biệt kích sẽ rõ hơn, phải quan-sát sáu cây số đường trong địa thế hiểm hóc là điều khó khăn. Kẹt hơn nữa khi họ hết nước uống, thêm hai biệt-kích bị bệnh. Hôm 28 tháng Chín, toán Strata yêu cầu triệt-xuất. Mặc dầu toán Strata không đem về được nhiều tin tức, đơn vị SOG mừng rỡ thành công vì là lần đầu tiên đem về được toán biệt-kích từ miền Bắc.

Không đầy một tháng, Strata chuẩn bị cho chuyến kế tiếp, lúc đó thiếu-tá Wilgus đã mãn thời gian phục-vụ tại Việt-Nam được thay thế bởi thiếu-tá Victor Calderon. Ðến Việt-Nam lần thứ hai, Calderon gom toán Strata 112 lại cho họ biết nhiệm-vụ của họ xâm nhập phía bắc tỉnh Quảng Bình, dọ thám ngã ba nơi đường 15 nhập vào đường 12 rồi chạy về hướng nam đến đèo Mụ-Giạ. Ðịa-điểm họ xuống sẽ là khu vực rừng núi cách mục- tiêu tám cây số về hướng Tây-bắc. Lần này họ phải nhẩy dù.

Ðêm 23 tháng Mười, mười quân nhân biệt-kích trong toán Strata 112 lên máy bay MC-130 trong phi-trường Tân-Sơn-Nhất. Phi cơ bay từ biển vào đến mục-tiêu, các biệt-kích quân nhẩy ra. Như những toán nhẩy dù xuống trước đây, toán Strata 112 bị phân tán. Hiệu-thính viên Ngô phong Hải không trông thấy ai trong toán trong khi đáp xuống, chiếc dù mang anh ta vướng trên một ngọn cây cao. Ðợi đến sáng, Hải cắt dây dù, leo xuống, sau đó gặp Mai văn Hợp, chuyên-viên chất nổ trong toán. Cả hai quay trở lại chỗ Hải xuống hồi đêm thâu hồi máy truyền-tin. Năm tiếng đồng hồ sau, cả toán gom lại đầy đủ. Trưởng toán là t/u Nguyễn văn Hùng hoài nghi điạ-thế xung quanh khu vực thả dù không giống như trong bản đồ. Thêm vào nữa vài người trong toán báo cáo có làng gần đó.

Sau khi phối kiểm, toán Strata 112 bị thả lầm xuống gần ranh giới tỉnh Hà-Tĩnh. Toán biệt-kích phải di-chuyển gấp, dân điạ phương sẽ khám phá ra họ và báo cho công an vũ-trang. Sáng ngày 31 tháng Mười, toán biệt-kích bị phục-kích gần bờ một con suối. Ba biệt-kích quân chết, một bị thương. Toán Strata 112 chạy về hướng nam tỉnh Quảng-Bình. Mặc dầu liên-lạc được với máy bay Hoa-Kỳ, nhưng rừng quá rậm, họ không thể xác định đúng vị-trí cuả toán biệt-kích. Trực thăng cấp cứu phải quay về.

Hết đồ ăn, toán biệt-kích phải tìm cây, củ trong rừng nướng ăn, dân điạ phương thấy khói lại đi báo công an. Trong tuần lễ kế tiếp, công an vũ-trang săn đuổi toán biệt-kích. Toán Strata 112 bị phân tán, chạy lạc, một nhóm bị bao vây vào buổi trưa ngày 4 tháng Mười Một, mấy người khác bị bắt vài hôm sau. Ngô phong Hải trốn thêm được mười hôm, mong có trực-thăng đến cứu, hết đạn, bị đói, hết hy-vọng, anh ta đầu hàng.

Chương-trình Strata có cấp chỉ-huy mới là thiếu-tá George ‘Speedy’ Gaspard. Sau khi nghiên-cứu tấn thảm-kịch Strata 112, ông ta di- chuyển các toán Strata ra Ðà-Nẵng. Có điều lợi là với máy PRC-74, các toán biệt-kích có thể liên- lạc thẳng với căn-cứ hành-quân tiền-phương, không phải qua trung gian BUGS bên Phi-Luật-Tân. Thứ hai để tránh thảm-hoạ, các toán sẽ xâm nhập bằng trực thăng CH-3 phát xuất từ căn-cứ không quân Nakhon-Phanom bên Thái-Lan. Ðể tránh rườm rà, toán biệt-kích Strata sẽ gồm từ bốn đến tám người. Thêm vào nữa, sức vóc người Việt Nam nhỏ không nên đem theo nhiều đồ, chỉ đem đầy đủ thực-phẩm đạn duợc, nếu cần sẽ được tiếp tế bằng CH-3.

Hài lòng, thiếu-tá Gaspard chuẩn bị cho chuyến thứ nhất trong năm 1968 Toán Strata 111 dự trù sẽ xâm nhập nơi phía tây làng Mơ, làng lớn trong huyện Lệ-Ninh tỉnh Quảng-Bình. Con đường 196 được xử dụng nhiều, chạy từ hướng tây-nam làng Mơ qua biên giới Lào-Việt đổ vào đường mòn Hồ-Chí-Minh. Trong khu vực có sông Gianh, nhiều dấu hiệu cho thấy, Bắc Việt xử dụng cả hai lộ trình chuyển quân và đồ tiếp vận vào miền Nam. Tin tức lấy được trong khu vực này sẽ có giá trị cho Không Lực số 7 Hoa-Kỳ.

Chiều ngày 17 tháng Ba, Strata 111 được trực- thăng đưa vào vùng hoạt-động. Xuống tới đất, toán biệt kích di-chuyển đến mục-tiêu. Sáng sớm hôm sau, họ đụng phải hai tiểu đội tuần-tiễu của địch, hai bên bắn nhau chừng hai mươi phút, toán biệt-kích di-chuyển ra chỗ khác. Ðêm đó họ báo cáo về Ðà-Nẵng chuyện chạm súng ban sáng.

Ðến ngày thứ ba, 19 tháng Ba, toán biệt-kích trở nên dè dặt, cẩn-thận, ba lần họ trông thấy các toán tuần-tiễu của lực lượng an-ninh địa-phương đang truy lùng họ. Bắt buộc toán Strata 111 phải yêu cầu triệt-xuất.

Kế tiếp Gaspard thử toán mới Strata 113. Ngày 31 tháng Ba, toán biệt-kích xâm nhập vào cùng mục-tiêu trước. Không thấy dấu hiệu của địch, một tuần sau, trực thăng vào bốc về. Strata 114 xâm nhập miền bắc, ngoài nhiệm vụ dọ thám đường toán biệt-kích đem theo truyền đơn của đài Gươm-Thiêng Ái-Quốc, và gài mìn trên đường và khu vực lân cận. Trong ngày thứ hai, toán đụng phải đơn-vị tuần-tiễu Bắc Việt, toán chạy thoát.

Di-chuyển dọc theo đường 196 về hướng nam, Strata 114 báo cáo về Ðà-Nẵng, chiều ngày 11 tháng Tư đã đến vị trí quan-sát con đường. Quan- sát con đường hai mươi bốn tiếng đồng hồ, ngày 12 SOG ra lệnh cho toán biệt-kích băng qua đường, chụp ảnh và rải truyền đơn, mìn bẫy. Một tiếng đồng hồ, sau khi đã thi-hành xong nhiệm- vụ, toán biệt-kích di-chuyển đến chỗ an-toàn. Họ nghe tiếng mìn nổ, chứng tỏ địch có xử dụng con đường.

Toán Strata 114 còn hai ngày nữa mới hết chuyến công-tác, tuy nhiên họ hết nước, đòi về. Toán biệt kích khát nước phải đợi đến ngày 15 tháng Tư, trực thăng mới vào bốc về. SOG quá hài lòng, biệt-kích ra vào sau lưng địch như chỗ không người.

Trong tháng Năm, căn cứ SOG ngoài Ðà-Nẵng có thêm nhiều toán biệt-kích mới vừa xong khoá huấn-luyện trong căn cứ Long-Thành. Toán lên đường là toán Strata 120 gồm sáu quân nhân, hai người đã có kinh-nghiệm từ toán Red Dragon trước đây, hai Việt-Nam và hai người sắc tộc Nùng.

Toán Strata 120 trang bị giống như những toán nằm vùng dài hạn trước đây, quần áo bộ-đội, súng không có số. Họ được trực thăng CH-3 đưa đến xâm nhập gần làng Mơ. Vài tiếng đồng hồ sau, toán biệt-kích trông thấy toán tuần-tiễu của địch đang di chuyển trong rừng, Họ báo cáo về Ðà-Nẵng yêu cầu triệt xuất, Ðược lệnh tiếp tục nhiệm-vụ vì địch chưa khám phá ra sự hiện diện của toán biệt-kích.

Strata 120 di chuyển đến một điểm khác, nơi phía bắc làng Mơ và biến mất. Trong vòng chín ngày sau, đơn vị SOG cố tìm kiếm toán biệt-kích. Thêm máy bay quan-sát, gọi Strata 120 trên tần số khẩn cấp mỗi giờ, gửi điện- văn trên đài Gươm-Thiêng Ái-Quốc. Ngày 26 tháng Năm, toán coi như mất tích.

Ðơn vị SOG không hề tìm ra số phận cuả toán biệt kích Strata 120. Ðịnh-mệnh đến với họ ngày 18 tháng Năm, bốn ngày sau khi xâm nhập. Nguyễn đình Lành xuống dò thám một giòng suối mà toán sẽ phải vượt qua. Giây phút sau, phần còn lại của toán nghe tiếng hò hét ‘Ðầu hàng! Ðầu hàng!’, tiếp theo là súng nổ. Lành trúng nguyên băng đạn AK chết tại chỗ. Hai quân nhân Nùng nổ súng đáp lại, ba người còn lại lủi vào bụi.

Chạy thục mạng cả năm biệt-kích gặp lại nhau. Trong lúc chạy họ bỏ lại tất cả chỉ đem theo súng và ít đồ ăn. Ðêm đó họ trèo lên đỉnh một ngọn đồi, thắp đèn báo hiệu, hy-vọng phi-cơ quan-sát Hoa-Kỳ sẽ trông thấy, đã bỏ mất máy truyền-tin, các quân nhân biệt-kích không còn cách nào hơn.

Trốn trên một ngọn đồi nắng cháy, chờ được cứu thoát, họ hết nước uống, và hai người Nùng đi tìm nước, có Trịnh quốc Anh đi theo. Hai người còn lại trên đồi nghe tiếng súng nổ, sau đó tất cả bị bắt ngày 24 tháng Năm.

Ngày 14 tháng Năm, cùng lúc với toán Strata 120, Toán Strata 111 cũng xâm nhập trở lại khu vực họ đã xuống trước đó hai tháng. Hai ngày đầu họ báo cáo an-toàn, đến ngày 17 toán biệt- kích nghe có tiếng súng và tiếng chó sủa. Mọi người nằm im chờ nguy-hiểm qua đi, rồi di-chuyển đến vị-trí thám-thính đường. Họ tiếp tục quan-sát con đường thêm tám ngày và được bốc về ngày 30 tháng Năm.

Một ngày sau khi toán Strata ra đi, toán Strata 122 xâm nhập nơi hướng bắc, trong toán này có ba anh em người Mông. Xuống đất Lào, toán không chịu vượt biên-giới vào Bắc việt. Trực thăng đem họ về và sa thải ra khỏi đơn vị SOG.

Cuối tháng Năm, Strata 113 xâm nhập lần thứ hai, trở về bình yên. Ngày 6 tháng Sáu, toán Strata 114 cũng xâm nhập lần thứ hai gần khu vực làng Mơ. Họ gặp ngay đoàn quân xa Molotova Bắc Việt đang di-chuyển trên đường về phía đường mòn Hồ chí Minh. Không lực Hoa-Kỳ đã để ý mục-tiêu này từ trước. Ngày 10 tháng Sáu, toán biệt-kích báo cáo bom rơi gần chỗ họ đang ẩn núp. Ðơn vị SOG phải thông báo cấp tốc cho KLHK và yêu cầu dành cho một khu vực an toàn không bị đánh bom.

Trận đánh bom của KLHK không có hiệu-quả, toán Strata 114 báo cáo bom không trúng mục- tiêu con đường. Hai ngày sau, toán biệt-kích mục-kích đoàn Molotova chở đồ tiếp-vận rất nặng nề di-chuyển trên đường. Sau đó, họ khám- phá ra một binh trạm chứa khoảng sáu mươi xe vận-tải dấu kín trong cánh rừng già có cây che phủ rất rậm rạp.

Những điều may mắn cho toán Strata 114 chấm dứt hôm 12 tháng Sáu, người trưởng, phó toán và nhân viên truyền-tin không trở lại sau một chuyến đi quan-sát ngắn. Nghe tiếng súng, lựu- đạn nổ, bốn quân nhân còn lại trong toán dọt lẹ và được bốc về ngày 18 tháng Sáu.

Strata 115 là toán mới, xâm nhập ngày hôm sau. Toán này sẽ tìm kiếm mục-tiêu trong vùng phía nam tỉnh Hà-Tĩnh, xa nhất cho các toán Strata, và cũng là toán gồm toàn người Miên. Trong những ngày kế tiếp, toán biệt-kích Miên di- chuyển đến mục-tiêu dọ thám đường của họ. Hết đồ ăn, SOG phải nhờ một chiếc khu trục A-1 của Không-quân Việt-Nam thả bom Napalm giả chứa đồ ăn cho họ. Ngày 27 toán Strata 115 chạm súng với địch chết môt biệt-kích quân. Họ được vào cứu đem về.

Cũng trong cùng thời gian, toán Strata 111 đi chuyến thứ tư. Ngày 20 tháng Sáu, toán xâm nhập mười sáu cây số phiá bắc vùng phi quân- sự. Trong bốn ngày đầu toán biệt-kích không thấy sự hiện diện của quân-đội Bắc Việt. Ngày 24, họ bị phát giác, gọi về Ðà-nẵng báo cáo rồi rải mìn di-chuyển đến vị-trí khác. Ba hôm sau Strata 111 đụng nữa, lần này phải chiến-đấu, một biệt kích quân bị thương nơi đùi, họ yêu-cầu được triệt-xuất. Toán Strata 111 khi về đến Ðà-nẵng bị giải tán.

Trong mùa hè 1968, chương trình Strata tiếp- tục phát-triển, bây giờ có mật danh là kế-hoạch 34B, biệt-kích nằm vùng dài hạn là 34A. Những toán mới được tuyển mộ gồm sĩ-quan, hạ-sĩ-quan trẻ trong QLVNCH. Họ làm gia tăng hiệu-năng cho các toán biệt-kích Strata.

Toán Strata 115 (Miên) xâm nhập lần thứ hai, sau mười tám ngày hoạt động họ đụng phải quân Bắc Việt. Toán bị phân tán. Trực-thăng đem về được ba người, bốn người khác mất tích.

Toán cuối cùng xâm nhập trong tháng Bẩy là Strata 119, gồm sắc dân thiểu-số Tầy. Họ được tuyển mộ từ bên Lào, sau đó đưa về Long Thành huấn luyện cho đến hết năm 1967. Họ được chia làm hai toán, toán Qua không có kết-quả phải cho họ về lại Vạn-Tượng. Toán Axe thành công có thêm hai hiệu-thính viên Việt-Nam trở thành Strata 119.

Ngày 29 tháng Bẩy, Strata 119 được trực- thăng đưa vào khu vực gần làng Mơ. Trong tuần lễ đầu, họ không gặp trở ngại nào, sau đó toán biệt-kích phát hiện quân-đội Bắc Việt thường xuyên. Ngày 10 tháng Tám, hai ngày trước khi hết thời gian công tác, Strata 119 phát hiện địch quân đang đi lùng, trưởng toán Lò văn Thông ra lệnh cho toán viên nằm im, gọi máy bay quan-sát xin chỉ dẫn. Vì rừng quá rậm rạp, Thông cùng với một biệt-kích quân leo lên cây để định hướng, đúng lúc súng nổ vang dội ở dưới, cả hai nằm im trên cả tiếng đồng hồ. Trong lúc đó toán biệt-kích còn lại chạy thoát và được trực-thăng bốc đưa qua Thái-Lan. Thông cùng biệt-kích quân còn lại định tìm đường qua Lào, họ bị quân Bắc Việt bắt.


Theo tài liệu ‘How American Lost the Secret War in North Vietnam’, Kenneth Conboy, Dale Andradé, United Press, 2000.


16-03-2001
Bạch-Hổ